 |
Trạm BTS ở cơ sở |
Hiện nay có 07 doanh nghiệp viễn thông cùng kinh doanh trên địa bàn tỉnh, tốc độ tăng trưởng viễn thông khá ổn định, đặc biệt là điện thoại di động và Internet. Hạ tầng cơ sở mạng lưới viễn thông phát triển nhanh, dọc theo các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ mọc lên san sát các trạm thu phát thông tin di động (trạm BTS), số lượng các trạm phát sóng thông tin di động (trạm BTS) của tất cả các mạng viễn thông trên địa bàn tỉnh đã lên tới trên 500 trạm, phủ sóng thông tin di động trên phạm vi toàn tỉnh.
Ngày 18/9/2008, UBND tỉnh Kon Tum đã ban hành quyết định số 42/2008/QĐ-UBND về việc quy định khu vực phải xin phép và thẩm quyền cấp phép xây dựng các trạm thu phát sóng thông tin di động (trạm BTS) trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Quyết định 42 của UBND tỉnh đã quy định cụ thể phạm vi khu vực phải xin phép xây dựng, lắp đặt đối với các trạm BTS loại 1 và trạm BTS loại 2. Đối với trên 500 trạm BTS hiện có trên địa bàn tỉnh, hầu hết đều thuộc diện phải xin cấp giấy phép xây dựng. Về thẩm quyền cấp phép xây dựng trạm BTS, UBND tỉnh giao cho Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã (nay là thành phố) xem xét, cấp giấy phép xây dựng đối với các trạm BTS trong phạm vi địa giới hành chính thuộc quyền quản lý sau khi có ý kiến thống nhất của các cơ quan có liên quan theo quy định.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực của việc phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ nhu cầu thông tin (trạm BTS), nhưng lại đang nảy sinh trên thực tiễn những bất cập và vi phạm Quyết định 42 của UBND tỉnh về qui trình tổ chức thực hiện ở cơ sở. Với hàng trăm trạm thông tin di động đang hoạt động, song còn nhiều trạm chưa có giấy phép. Để xảy ra tình trạng này, trách nhiệm thuộc về cả hai phía: các doanh nghiệp viễn thông và chính quyền địa phương ! Đối với các doanh nghiệp viễn thông đó là sự sai phạm về qui trình, thủ tục pháp lý theo qui định của pháp luật. Đối với chính quyền các địa phương, đặc biệt là UBND xã thì đó là sự lỏng lẻo trong quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của mình, các trạm BTS được xây dựng trên đất của mình nhưng không biết ! hoặc biết nhưng không xử lý, không báo cáo cho UBND huyện và các ngành chức năng của huyện. Hầu như ở các huyện đều xảy ra tình trạng tưong tự, vi phạm nghiêm trọng Quyết định 42 của UBND tỉnh. Ngoài việc không xin cấp phép xây dựng trạm BTS, khá nhiều doanh nghiệp viễn thông còn bỏ qua cả khâu kiểm định công trình kỹ thuật chuyên ngành viễn thông trước khi đưa trạm BTS vào hoạt động. Qua kiểm tra nhiều trạm đã đưa vào hoạt động nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận kiểm định công trình viễn thông theo quy định.
Thực tiễn nêu trên cho thấy, cần phải tăng cường công tác quản lý, chấn chỉnh tình hình vi phạm quy định pháp luật trong lĩnh vực xây dựng các trạm thu phát sóng thông tin di động (BTS) trên địa bàn tỉnh. Theo qui định của UBND tỉnh thì UBND các huyện, thành phố là cơ quan có thẩm quyền cấp phép xây dựng và giám sát việc xây dựng các trạm thu, phát sóng thông tin di động BTS trong phạm vi địa giới hành chính thuộc quyền quản lý của mình, do vậy phải chỉ đạo các phòng, ban liên quan, UBND các xã, phường, thị trấn thực hiện chức năng quản lý hành chính trên địa bàn về quy định của Nhà nước đối với công trình xây dựng trạm BTS. Cần phối hợp tốt với ngành thông tin và truyền thông tỉnh tổ chức rà soát các trạm BTS trên địa bàn mình quản lý, yêu cầu thực hiện các thủ tục pháp lý theo qui định của Nhà nước, bên cạnh đó cũng cần tạo điều kiện thuận lợi và nhanh chóng trong việc cấp phép xây dựng bổ sung cho các doanh nghiệp viễn thông có trạm BTS ở địa phương để thực hiện tốt Quyết định 42/2008 của UBND tỉnh, nâng cao hiệu lực và hiệu quả về quản lý hành chính nhà nước ở địa phương.
Nhật Trung