Thứ 5, Ngày 08/05/2025 -
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá DDCI tỉnh Kon Tum năm 2023 VCCI Đà Nẵng đã đưa ra các giải pháp, khuyến nghị đối với các sở, ban nhành, địa phương trên địa bàn tỉnh nhằm nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp sở, ban, ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh Kon Tum, cụ thể:
Tăng cường hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, đồng hành cùng DN
Trong năm vừa qua tỉnh đã ban hành các văn bản chỉ đạo, điều hành nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng DN; các chương trình đối thoại DN, Cafe doanh nhân ... thường xuyên được tổ chức để thu thập, giải quyết khó khăn, vướng mắc của DN. Những nỗ lực hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho DN của tỉnh đã giúp đẩy nhanh việc giải quyết, tháo gỡ các khó khăn mang tính phức tạp của cộng đồng DN, mặc dù vậy sự kỳ vọng của cộng đồng DN về việc giải quyết vướng mắc vẫn còn rất lớn và các cơ quan chính quyền cần rất nhiều nỗ lực để đáp ứng kỳ vọng đó.
Trong thời gian tới tỉnh cần duy trì và đẩy mạnh công tác hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho DN. Khâu thu thập, tổng hợp khó khăn, vướng mắc của DN cần được mở rộng hơn nữa bằng nhiều hình thức. Nâng cao hơn nữa vai trò của các Hiệp hội DN trong việc tập hợp ý kiến của cộng đồng DN và phản ánh các ý kiến đến các đơn vị tại tỉnh có hiệu quả với tinh thần: trách nhiệm, chia sẻ và sáng kiến để vượt qua khó khăn. Đối với công tác giải quyết và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc thì cần đẩy nhanh quá trình xử lý, tập trung giải quyết các vấn đề nổi cộm, tác động đến nhiều DN tại tỉnh. Và đặc biệt là kết quả giải quyết phải được thông tin rộng rãi, đầy đủ và nhanh chóng đến cộng đồng DN. Vấn đề nào tỉnh giải quyết được thì cần thông tin kết quả giải quyết đến đâu, vấn đề nằm ngoài quyền hạn thì cần thông tin về quá trình tỉnh đưa vấn đề đến các cơ quan cấp trên có liên quan. Thực hiện tốt giải quyết khó khăn, vướng mắc cho DN sẽ là chìa khóa để tỉnh, các sở, ban, ngành và cấp huyện nâng cao hình ảnh chính quyền luôn đồng hành cùng cộng đồng DN tỉnh, qua đó thúc đẩy cải thiện MTKD trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh việc tháo gỡ vướng mắc, các đơn vị trên địa bàn tỉnh Kon Tum cần đồng hành xây dựng cộng đồng DN tỉnh lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, quy mô. Tập trung hỗ trợ tích cực, có hiệu quả cho DN mở rộng quy mô, nâng cao trình độ quản trị DN theo chuẩn khu vực, quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của DN. Đồng thời, khuyến khích hỗ trợ phát triển DN nhỏ và vừa; ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh... Ngoài ra, cần xây dựng chính sách phát triển DN có tính chiến lược, khai thác lợi thế ngành, lĩnh vực để đón bắt cơ hội nhằm phục hồi và phát triển mạnh mẽ hoạt động kinh tế trên địa bàn tỉnh.
Khuyến khích sự năng động, sáng tạo trong cán bộ công chức khi giải quyết công việc.
Trong những năm qua các tỉnh, TP trên toàn quốc nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng đều rất chú trọng công tác cải thiện MTKD, hỗ trợ DN, tạo lập MTKD thân thiện thu hút các nhà đầu tư đến các địa phương. Để thực hiện hóa các mục tiêu cải thiện MTKD, hỗ trợ DN, hằng năm các địa phương đều đề ra các chương trình, kế hoạch hành động, để thực hiện tốt các chương trình này thì yếu tố con người thực thi là yếu tố rất quan trọng đặc biệt là cán bộ lãnh đạo ở các đơn vị, những người có vai trò quan trọng trong chỉ đạo, giám sát thực thi. Kết quả khảo sát DDCI Kon Tum 2023, DN đánh giá CSTP Vai trò người đứng đầu ở nhóm cấp huyện có trung vị thấp trong 8 CSTP. Việc khuyến khích tính năng động, dám nghĩ dám làm của cán bộ, lãnh đạo trong công việc không chỉ còn là việc của riêng mỗi đơn vị hay địa phương. Chính phủ đã xác định thúc đẩy thể chế để đổi mới, sáng tạo là một trong những nội dung cốt lõi trong đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế để phát triển thông qua việc ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29/9/2023 của Chính phủ quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Nghị định nêu rõ các điều kiện, hình thức khuyến khích cán bộ năng động, sáng tạo và đặc biệt là các quy định về trường hợp cán bộ được bảo vệ cũng như các biện pháp bảo vệ, điều này giúp cho cán bộ tự tin hơn khi thực hiện đề xuất đổi mới, sáng tạo trong công việc. Đây sẽ là căn cứ pháp lý tốt cho tỉnh đề ra những quy định hỗ trợ sự năng động, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ tỉnh.
Hiện nay tình trạng cán bộ công chức thực hiện một cách máy móc các qui định dẫn đến năng suất làm việc chưa cao, chưa tạo được sự thuận lợi cho DN khi làm vẫn tồn tại trên toàn quốc nói chung và tại tỉnh nói riêng. Một trong những nguyên nhân là nhiều quy định chồng chéo, phức tạp, nội dung chưa rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến cán bộ thực thi chưa rõ làm như thế nào là đúng. Bên cạnh đó còn là tâm lý của một bộ phận cán bộ, công chức hiện nay khá e sợ, không dám và không muốn làm, thà bị kỷ luật do chưa hoàn thành nhiệm vụ hơn là dính dáng đến pháp luật. Do đó cần phải có sự khuyến khích đồng thời bảo vệ để cán bộ có thể tự tin, năng động trong công việc phá vỡ được sự máy móc kiềm hãm hiệu quả công việc. Để thúc đẩy sự năng động ở mỗi cán bộ, phải thay đổi cách thức đánh giá cán bộ. Thay vì khen thưởng đề bạt những cán bộ ít sai phạm do không năng động, sợ trách nhiệm nên khen thưởng những cán bộ linh hoạt, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm (dù có thể họ có một số quyết định chưa đúng).
Đối với mỗi cơ quan, đơn vị thì cán bộ nhân viên không thể năng động, sáng tạo trong khi người đứng đầu đơn vị lại kém năng động, sợ trách nhiệm. Công tác cán bộ cần chú trọng cân nhắc, xem xét về việc cá nhân đó có đầy đủ các kiến thức chuyên môn, nắm vững pháp luật liên quan đến lĩnh vực mình phụ trách từ đó lãnh đạo cũng như cán bộ các đơn vị tự tin, quyết đoán khi phải ra quyết định; có sự bản lĩnh- dám làm/quyết, dám chịu trách nhiệm để hoàn thành các công việc một cách tốt nhất. Bên cạnh việc cấp lãnh đạo năng động, dám nghĩ dám làm, thì các lãnh đạo cũng phải lan tỏa, hướng dẫn, kiểm tra để cấp dưới của mình chủ động, sáng tạo trong công việc, giảm thiểu tình trạng cấp dưới chưa thực hiện tốt chủ trương của cấp lãnh đạo mà hiện nay theo khảo sát DDCI thì yếu tố này vẫn còn dư địa cải thiện ở cả hai nhóm sở, ban, ngành và địa phương.
Tiếp tục đẩy mạnh tỷ lệ DN sử dụng DVCTT
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tác động mạnh mẽ, Chính phủ đã xác định và đang từng bước xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số, tạo tiền để để công dân, tổ chức DN được hưởng đầy đủ nhất, toàn vẹn nhất các lợi ích trong cuộc sống. Trong thời gian qua, dịch vụ công trực tuyến đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin và giải quyết các vấn đề hành chính cho công dân và DN. Tăng cường thực hiện TTHC công trực tuyến là một trong những giải pháp hữu hiệu để giảm Chi phí thời gian, CPKCT, tạo sự công bằng cho các DN cũng như minh bạch và cung cấp thông tin kịp thời. Hiện nay tỉnh đã có nhiều nỗ lực để đẩy mạnh tỷ lệ người dân, DN thực hiện DVCTT, tuy nhiên thực tế cho thấy vẫn còn nhiều dư địa để cải thiện vấn đề này của tỉnh. Để thu hút người dân và DN thực hiện các TTHC công theo hình thức trực tuyến, các sở, ban, ngành và cấp huyện có thể tham khảo một số gợi mở sau:
Thứ nhất là bên cạnh sự quyết tâm trong công tác chỉ đạo, giám sát của lãnh đạo các đơn vị thì cần phải cụ thể thông qua việc giao chỉ tiêu về tỷ lệ thực hiện TTHC công trực tuyến đến từng đơn vị phụ trách. Công tác giám sát, kiểm tra, chỉ đạo của lãnh đạo tiến hành thường xuyên và liên tục sẽ góp phần thúc đẩy công tác này.
Thứ hai là xem xét, rà soát các quy trình TTHC công trực tuyến thuộc thẩm quyền, cắt giảm các khâu không cần thiết để giảm thời gian thực hiện, đảm bảo việc thực hiện thủ tục trực tuyến nhanh chóng, đơn giản hơn so với thực thiện theo phương pháp truyền thống. Hạn chế thấp nhất việc đã thực hiện khai trực tuyến nhưng vẫn phải đến các cơ quan để nộp các giấy tờ đã khai để hoàn thành các thủ tục.
Thứ ba là đơn giản hóa các thao tác trên các ứng dụng hành chính công trực tuyến để thuận tiện cho người sử dụng. Giảm thấp nhất đến việc khai báo quá nhiều thông tin cá nhân làm phức tạp và mất thời gian cho người thực hiện. Bên cạnh đó cũng cần nâng cao tỷ lệ thanh toán trực tuyến, việc thanh toán cần tích hợp nhiều hình thức thanh toán bằng chuyển khoản ngân hàng nhanh, mã QR, chuyển khoản các ví điện tử phổ biến .v.v.
Thứ tư là thay đổi thói quen thực hiện TTHC của người dân từ trực tiếp sang trực tuyến. Đầu tiên là qua công tác tuyên truyền, phổ biến những thuận lợi của việc thực hiện TTHC công trực tuyến bằng nhiều hình thức đến người dân và DN. Tiếp theo, tại các bộ phận tiếp nhận và trả kết quả TTHC cần có cán bộ giới thiệu và hướng dẫn người dân, DN đến làm thủ tục thay vì phải ngồi đợi đến lượt của mình để làm trực tiếp thì có thể thực hiện thủ tục qua hình thức trực tuyến sẽ nhanh hơn, điều này sẽ tác động trực tiếp đến suy nghĩ của người dân về những thuận lợi của việc thực hiện TTHC công trực tuyến so với phương pháp truyền thống. Ngoài ra để người dân, DN có thể tiếp cận nhiều hơn với phương pháp trực tuyến, thì cần có những hình thức khuyến khích như giảm các phí, lệ phí thực hiện TTHC trực tuyến trong một số lần thực hiện đầu tiên đối với người dân và DN hoặc thời gian trả kết quả của các DVCTT cần nhanh hơn đáng kể so với phương pháp trực tiếp để tạo được sự khác biệt để người dân và DN quan tâm hơn đến DVCTT.
Tăng tính hiệu quả trong giải quyết khó khăn, kiến nghị tại các đơn vị
Trong năm 2023, tỉnh Kon Tum tiếp tục tập trung cải thiện công tác giải quyết khó khăn, kiến nghị của DN, các đơn vị của tỉnh rà soát, đánh giá tình hình thực hiện và có giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác phối hợp để giải quyết các khó khăn, kiến nghị của DN. Những nỗ lực của tỉnh đã mang lại những tiến triển tích cực trong việc giải quyết khó khăn, kiến nghị của DN, mặc dù vậy để đáp ứng và giải quyết triệt để những vấn đề của DN cần những nỗ lực kiên trì và mang tính liên tục từ tỉnh. Khi những kiến nghị, khó khăn của DN được các cơ quan tiếp nhận và có sự phản hồi đến DN điều đó sẽ giúp cho DN cảm nhận được sự chia sẻ, hỗ trợ DN từ các cấp chính quyền cũng như cảm nhận được sự công bằng trong giữa các DN khi làm việc với các cơ quan chính quyền.
Phản ánh các khó khăn, kiến nghị là quyền lợi của DN, là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích của DN. Các khó khăn, kiến nghị của DN cũng là một kênh thông tin khách quan phản ánh chất lượng thực thi của các cơ quan nhà nước và tình hình thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Do đó, công tác giải quyết khó khăn, kiến nghị có vai trò quan trọng trong quản lý, điều hành của các đơn vị. Khi công tác giải quyết khó khăn, kiến nghị được thực hiện đúng quy định sẽ góp phần phát huy tính minh bạch, công bằng của bộ máy nhà nước, đồng thời tạo lòng tin của DN về một MTKD thân thiện, minh bạch, công bằng tại tỉnh.
Các cán bộ phụ trách giải quyết khó khăn, kiến nghị phải nắm vững các quy định pháp luật về công tác tiếp công dân, giải quyết kiến nghị. Đồng thời, phải nghiên cứu thêm các quy định của ngành, lĩnh vực liên quan đến kiến nghị như: về đất đai, tài chính - ngân sách … để tham mưu cho cấp thẩm quyền xử lý đúng pháp luật. Bên cạnh đó các cấp quản lý cũng cần thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo, đôn đốc việc triển khai thực hiện. Ngoài ra, quy định pháp luật thường xuyên có những cập nhật, bổ sung bên cạnh đó những vấn đề vướng mắc của DN cũng có sự thay đổi liên tục do đó đội ngũ cán bộ trực tiếp cũng như tham mưu công tác giải quyết khó khăn, kiến nghị cần được bồi dưỡng và cập nhật kiến thức liên quan thường xuyên.
Bên cạnh yếu tố con người thì việc giám sát công tác giải quyết khó khăn, kiến nghị là nhiệm vụ quan trọng và là một trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khó khăn, kiến nghị. Tăng cường công tác giám sát đối với đơn vị, bộ phận có trách nhiệm giải quyết khó khăn, kiến nghị, công tác tiếp DN, thường xuyên tổ chức các cuộc giám sát chuyên đề về giải quyết khó khăn, kiến nghị của DN. Ngoài nhiệm vụ giám sát thì cần phải hỗ trợ, tiếp nhận những vướng mắc, khó khăn của chính những đơn vị, bộ phận thực hiện giải quyết kiến nghị để có sự phối hợp nhằm tăng tính hiệu quả trong công tác giải quyết khó khăn, kiến nghị của DN. Công tác giám sát giải quyết khó khăn, kiến nghị, tiếp DN nếu được các cấp, các đơn vị quan tâm sẽ giảm tải được lượng lớn kiến nghị, khiếu nại tồn đọng, kéo dài, vượt cấp.
Tăng cường công tác phối hợp, tuyên truyền các quy định pháp luật và các quy định có liên quan về việc giải quyết kiến nghị, khó khăn vướng mắc để DN nắm rõ; nâng cao vai trò của các tổ chức hỗ trợ tư vấn pháp lý ở địa phương. Tiếp tục duy trì thực hiện tốt công tác phối hợp giữa các cơ quan, các ban ngành, đoàn thể trong giải quyết khó khăn, kiến nghị. Nghiên cứu triển khai áp dụng hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử kết nối về việc tiếp nhận, giải quyết khó khăn, kiến nghị ở cấp địa phương và các sở, ban, ngành để phục vụ các cơ quan có liên quan theo dõi quá trình giải quyết khó khăn, kiến nghị tránh tình trạng kiến nghị trùng lặp, giảm áp lực cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết, đồng thời cũng là kênh để các đơn vị tại tỉnh có thể nắm rõ tình hình giải quyết khó khăn, kiến nghị tại tỉnh. Nếu các đơn vị đầu tư quan tâm và sử dụng hiệu quả những nền tảng công nghệ hiện tại sẽ có được thuận lợi trong việc hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử về công tác giải quyết khó khăn, kiến nghị, ngoài ra các kiến nghị của DN sẽ được giải quyết triệt để, kịp thời hơn từ đó tạo ra sự đồng thuận, chia sẻ của DN, người dân đối với các vấn đề xử lý của nhà nước./.
Trịnh Minh
(Theo DDCI Kon Tum năm 2023)
Tin tức liên quan