Thứ 5, Ngày 05/06/2025 -

Một số điểm mới về công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016
Ngày đăng: 18/03/2011  03:34
Mặc định Cỡ chữ
 

Áp phích cổ động- Ảnh minh họa.
 
Ngày 21-01-2011, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1018 NQ/UBTVQH12 công bố ngày 22-5-2011 là ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 trên toàn quốc.
 
Cuộc bầu cử lần này có nhiều quy định khác trước, vì Quốc hội khóa XII mới thông qua Luật số 63/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (sau đây gọi tắt là Luật sửa đổi, bổ sung).
 
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi xin giới thiệu những điểm mới cơ bản, trọng tâm của vấn đề, cụ thể:
 
I. ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
 
1. Về khu vực bỏ phiếu và số lượng cử tri mỗi khu vực bỏ phiếu
 
Luật sửa đổi, bổ sung quy định: Khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội đồng thời là khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (điểm 1, Điều 12).
 
Số lượng cử tri ở mỗi khu vực bỏ phiếu phải có từ 300 đến 4.000 thay cho từ 300 đến 2.000. Bởi vì, nếu quy định như trước đây thì sẽ gây khó khăn cho địa phương có mật độ dân số cao. Hơn nữa, việc nới rộng biên độ dao động số lượng cử tri nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương khi thành lập các khu vực bỏ phiếu gói trọn trong từng địa bàn cụ thể, cử tri đi bỏ phiếu được nhanh gọn, và điều này cũng phù hợp với năng lực thực tế của các Tổ bầu cử. Tuy nhiên, luật cũng quy định ở vùng miền núi, hải đảo, những nơi dân cư không tập trung thì dù chưa có tới 300 cử tri cũng được thành lập khu vực bỏ phiếu.
 
Đối với các đơn vị lực lượng vũ trang, luật quy định thành lập khu vực bỏ phiếu riêng, song cũng mở theo hướng trừ trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một khu vực bỏ phiếu. Quy định như vậy để khắc phục tình trạng đối với các đơn vị lực lượng vũ trang có ít quân số không thể thành lập được đơn vị bầu cử riêng.
 
2. Về các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội
 
Điều 13 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội trước đây quy định có các tổ chức sau:
 
- Hội đồng bầu cử ở Trung ương;
 
- Uỷ ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
 
- Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử;
 
- Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu.
 
Lần này, Luật sửa đổi, bổ sung có: 
 
- Hội đồng bầu cử ở Trung ương;
 
- Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
 
- Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử;
 
- Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu.
 
Sở dĩ có quy định mới như vậy vì đây là cuộc bầu cử chung, nếu cứ theo quy định của từng luật thì phải thành lập nhiều tổ phụ trách để thực hiện nhiệm vụ bầu cử.
 
Hội đồng bầu cử ở Trung ương và Tổ bầu cử tuy vẫn giữ nguyên về tên gọi nhưng chức năng, nhiệm vụ được bổ sung thêm (đã quy định cụ thể trong luật, xin không trình bày lại).
 
Riêng đối với các Ban bầu cử thì không thể hợp nhất về tổ chức, chức năng nhiệm vụ trong bầu cử chung được - vì Ban bầu cử được thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử, trong khi đó đơn vị bầu cử đối với đại biểu Quốc hội lại khác so với đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân mỗi cấp. Như thế, trong cuộc bầu cử sắp tới sẽ có 4 Ban bầu cử là: Ban bầu cử đại biểu Quốc hội, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện và Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
 
3. Về chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử Trung ương
 
Nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử Trung ương được quy định, theo đó, bên cạnh một số nhiệm vụ, quyền hạn riêng đối với bầu cử đại biểu Quốc hội thì Hội đồng bầu cử còn được bổ sung thêm các nhiệm vụ, quyền hạn đối với cả bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, cụ thể là: Lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân trong cả nước; kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các quy định của pháp luật về bầu cử; nhận hồ sơ và danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội do Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân gửi đến; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử và kết quả bầu cử đại biểu đại biểu Quốc hội; quyết định việc bầu cử lại, bầu cử thêm đại biểu Quốc hội hoặc huỷ bỏ kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội ở đơn vị bầu cử.... Quy định như vậy là nhằm bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân từ Trung ương đến địa phương. 
 
4. Về Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh
 
Điều 15 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định số lượng thành viên, thành phần, chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, theo đó, Uỷ ban bầu cử thực hiện nhiệm vụ bầu cử đại biểu Quốc hội và nhiệm vụ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh. Vì vậy, số lượng thành viên của tổ chức này được quy định có từ 21 đến 31 người.
 
Ngoài ra, Luật cũng quy định nhiệm vụ của Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc nhận hồ sơ, danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội phân phối cho Ban bầu cử là phù hợp với thực tế; lập và công bố danh sách những người ứng cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo, kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử đại biểu Quốc hội của Ban bầu cử.... Quy định như vậy sẽ làm rõ trách nhiệm của cơ quan hành chính trong việc đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho bầu cử.
 
5. Về chủ thể thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban bầu cử
 
Theo quy định trước đây, chủ thể thành lập Ban bầu cử (và các tổ chức phục vụ bầu cử khác) do Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Luật sửa đổi, bổ sung lần này quy định chủ thể thành lập Ban bầu cử đại biểu Quốc hội là Ủy ban nhân dân bởi các lý do sau:
 
- Uỷ ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước, có điều kiện thuận lợi trong việc bố trí nguồn lực, phương tiện cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động bầu cử.
 
- Do một số địa phương đang thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường nên ở các địa phương này sẽ không có Thường trực Hội đồng nhân dân để đứng ra thành lập các tổ chức bầu cử. Do vậy, nên giao cho Ủy ban nhân dân chủ trì việc thành lập để đảm bảo tính thống nhất trong toàn quốc.
 
- Vì đây là cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nên việc giao cho Ủy ban nhân dân chủ trì, thành lập sẽ đảm bảo tính khách quan hơn trong việc tổ chức bầu cử. 
 
Về quyền hạn, nhiệm vụ của Ban bầu cử được sửa đổi thống nhất với quy định của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo hướng nới rộng thời gian phân phối tài liệu và phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội cho các Tổ bầu cử là 15 ngày (tăng thêm 10 ngày so với luật hiện hành) để đảm bảo khoảng thời gian cần thiết cho Tổ bầu cử có thể phân phát đầy đủ tới cử tri.
 
6. Về thời hạn, chủ thể thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ bầu cử
 
Theo Điều 17 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội thì Tổ bầu cử thực hiện nhiệm vụ phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Theo đó, thành phần Tổ bầu cử đã được sửa đổi so với luật hiện hành theo hướng quy định mở rộng thành phần tham gia là đại diện cơ quan, tổ chức xã hội và tập thể cử tri tại địa phương nhằm bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với thực tế.
 
Số lượng thành viên Tổ bầu cử cũng được nới rộng là từ 11 đến 21 người (trước đây quy định là có từ có từ 5 đến 11 người) để đảm bảo hoàn thành công tác bầu cử đối với khu vực bỏ phiếu có từ 300 đến 4.000 cử tri.
 
Thời hạn thành lập Tổ bầu cử được nới rộng hơn so 05 ngày với luật hiện hành khi quy định chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử để tổ chức này có đủ thời gian hình thành tổ chức, phân công công việc.
 
Tổ bầu cử là tổ chức phụ trách công tác bầu cử ở cấp cơ sở, gắn với khu vực bỏ phiếu, gắn bó chặt chẽ với cử tri. Tuy nhiên, trước đây, do trong luật không quy định cụ thể nhiệm vụ của Tổ bầu cử với vai trò là đầu mối liên hệ trực tiếp với cử tri, là tổ chức nhận tài liệu và phiếu bầu của đại biểu Quốc hội và của đại biểu Hội đồng nhân dân từ Ban bầu cử để phân phát tới cử tri. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội cũng không quy định cụ thể thời hạn để Tổ bầu cử thực hiện việc thông báo cho cử tri biết về ngày bầu cử. Do đó, sẽ dẫn đến tình trạng lỏng lẻo trong việc thực thi nhiệm vụ... Khắc phục tồn tại này, Luật sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về quy trình nhận tài liệu và phiếu bầu, thời hạn thông báo các thông tin về bầu cử với cử tri, đảm bảo sự thống nhất với quy định của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong điều kiện bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cùng một ngày.
 
Ngoài ra, Luật hiện hành cũng không quy định trách nhiệm của Tổ bầu cử đối với những khiếu nại, tố cáo, nên dẫn đến thực tế là Tổ bầu cử không có trách nhiệm gì trong giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với lĩnh vực mình phụ trách, và mọi khiếu nại, tố cáo lại dồn lên Ban bầu cử, trong khi đó Ban bầu cử cũng quá tải với công việc tổng hợp trực tiếp kết quả bầu cử từ các Tổ bầu cử khác. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung quy định Tổ bầu cử có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu là phù hợp với thực tế và cũng đảm bảo sự thống nhất đối với quy định của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
 
7. Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử
 
Hội đồng bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại biểu Quốc hội sau khi trình Quốc hội khóa mới biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và hồ sơ, tài liệu về bầu cử đại biểu Quốc hội (Điều 21 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội).
 
Riêng đối với các tổ chức bầu cử ở địa phương như: Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu cử, Tổ bầu cử đối với bầu cử đại biểu Quốc hội vẫn phải tiếp tục hoạt động sau khi Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử trong cả nước để thực hiện một số công việc về quyết toán kinh phí, giải quyết các vướng mắc phát sinh về kinh phí bầu cử…Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phụ trách bầu cử địa phương hoàn thành nhiệm vụ thì Luật sửa đổi, bổ sung quy định thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử kể trên phải là sau khi Hội đồng bầu cử tiến hành tổng kết công tác bầu cử trong cả nước.
 
8. Về thời hạn niêm yết danh sách cử tri
 
Do cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân lần này cùng chung một ngày thì danh sách cử tri chỉ có một, nên việc lập và niêm yết danh sách cử tri là công việc chung, không thể cùng một thời hạn niêm yết danh sách cử tri lại được điều chỉnh khác nhau bởi hai luật về bầu cử. Do vậy, Luật sửa đổi, bổ sung thống nhất thời hạn niêm yết danh sách cử tri là 35 ngày trước ngày bầu cử, nới rộng hơn 5 ngày so với luật hiện hành.
 
9. Về thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo về danh sách cử tri
 
Luật sửa đổi, bổ sung quy định tăng thời hạn tiếp nhận khiếu nại, tố cáo về danh sách cử tri lên 25 ngày trước ngày bầu cử, tăng 5 ngày so với quy định hiện hành; tăng thêm 02 ngày về thời hạn phải giải quyết khiếu nại, tố cáo về danh sách cử tri là nhằm để đảm bảo quyền lợi của người khiếu nại, tố cáo và đảm bảo thời gian hợp lý cho cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo; đồng thời đảm bảo sự thống nhất theo quy định tại Điều 27 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
 
10. Về phân bổ người ứng cử và số dư ở mỗi đơn vị bầu cử
 
Luật hiện hành quy định số người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó (Điều 46 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội). Quy định này dẫn đến tình trạng có đơn vị bầu cử số người ứng cử chỉ nhiều hơn số đại biểu được bầu là 01 người. Như vậy, trong trường hợp bất khả kháng khi người ứng cử bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị chết hoặc vì lý do khác phải xóa tên trong danh sách bầu cử thì đơn vị bầu cử đó sẽ không có số dư, hoặc phải giảm số đại biểu được bầu ở đơn vị đó để bảo đảm số dư theo đúng quy định của luật.
 
Nếu quy định số người ứng cử nhiều hơn số đại biểu được bầu ở khu vực đó ít nhất là hai người thì sẽ gây khó khăn đối với những đơn vị bầu cử chỉ được phân bổ 01 hoặc 02 đại biểu. Khi đó, danh sách ứng cử phải là 03 người để bầu 01 người hoặc 04 người để bầu 02 người. Vì vậy, chỉ nên quy định chung số người trong danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó. Đối với những đơn vị bầu cử được bầu từ 03 đại biểu trở lên thì số người ứng cử phải nhiều hơn ít nhất là 02 người.
 
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội hiện hành cũng không quy định rõ đối với những trường hợp bất khả kháng về nhân sự trong bầu cử thì sẽ do cơ quan nào có thẩm quyền xem xét, quyết định. Vì vậy, tại Điều 46 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội được bổ sung quy định rõ Hội đồng bầu cử sẽ xem xét, quyết định đối với những trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng sẽ tạo thuận lợi trong quá trình thực hiện khi xảy ra sự việc này.
 
11. Về trường hợp hoãn bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định
 
Luật hiện hành quy định Tổ bầu cử có trách nhiệm báo cáo với các tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên về trường hợp đặc biệt cần hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định, nhưng thời gian xem xét giữa các luật lại không thống nhất. Vì vậy, Điều 55 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội được sửa đổi, bổ sung: Trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cáo Ban bầu cử để đề nghị Uỷ ban bầu cử trình Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.
 
12. Về thời gian bỏ phiếu
 
Điều 57 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội hiện hành quy định trong trường hợp ngoại lệ, tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cuộc bỏ phiếu kết thúc muộn hơn nhưng không quá 10 đêm.
 
Thực tế cho thấy, sau thời điểm kết thúc bỏ phiếu, các tổ chức phụ trách bầu cử phải có thời gian cần thiết thực hiện việc kiểm phiếu; hơn nữa, quy định này không thống nhất với Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung quy định lại cần phải có sự thống nhất về thời gian bắt đầu, thời gian kết thúc và trong trường hợp ngoại lệ, tùy tình hình địa phương thì có thể bắt đầu bỏ phiếu sớm nhưng không được bắt đầu trước 05 giờ sáng và kết thúc muộn nhưng phải trước 10 giờ đêm.
 
13. Về quyền bỏ phiếu bầu của cử tri
 
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội hiện hành không quy định điều kiện bỏ phiếu của cử tri, trong khi đó Điều 49 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân lại quy định cụ thể “khi đi bầu phải xuất trình thẻ cử tri”. Do vậy, việc quy định “khi đi bầu phải xuất trình thẻ cử tri” bổ sung vào Điều 58 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội nhằm để thống nhất với Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân và nhằm đảm bảo tính chặt chẽ trong thủ tục bỏ phiếu.
 
14. Về tổ chức phụ trách bầu cử xác nhận việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội
 
Vì thời gian bầu cử đại biểu Quốc hội và thời gian bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân diễn ra cùng một ngày nên Luật sửa đổi, bổ sung quy định lại: Tổ bầu cử là phải đóng dấu “đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri để làm cơ sở xác định tránh tình trạng cử tri đã bầu hay chưa (nội dung này được bổ sung vào cuối Điều 60 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội).
 
15. Về biên bản kiểm phiếu
 
Việc lập biên bản kiểm phiếu là nhiệm vụ của Tổ bầu cử phải thực hiện sau khi kiểm phiếu xong. Tuy nhiên, các thông số về biên bản kiểm phiếu lại quy định khác nhau giữa 02 luật. Thực tế cho thấy việc lập biên bản kiểm phiếu là công việc đòi hỏi sự chính xác cao, lại phải hoàn thành trong 03 ngày sau ngày bầu cử, nên các thông tin trên biên bản kiểm phiếu phải thật đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện. Do đó, việc thay thế thông tin về “tỷ lệ cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng số cử tri” trong luật hiện hành bằng thông tin về “số cử tri đã tham gia bỏ phiếu”; đồng thời bổ sung thông tin về “số phiếu phát ra; số phiếu thu vào” vào Điều 68 để bảo đảm sự đơn giản trong việc thực hiện, bảo đảm sự thống nhất với quy định của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
 
Đồng thời, để bảo đảm thống nhất với Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, quy định mới cũng sửa đổi theo hướng quy định chỉ có 3 đầu mối nhận biên bản kiểm phiếu do Tổ bầu cử gửi đến là Ban bầu cử, Ủy ban nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn chậm nhất là 3 ngày say ngày bầu cử.
 
II. ĐỐI VỚI BẦU CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
 
1. Về khu vực bỏ phiếu
 
Đối với khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật sửa đổi, bổ sung khẳng định lại rằng đây cũng khu vực bỏ phiếu bầu cử đại biểuQuốc hội; việc thành lập khu vực bỏ phiếu thì thực hiện theo quy định tại Điều 12 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội - tức là: Phải có từ 300 đến 4.000 cử tri, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân thành lập khu vực bỏ phiếu riêng trừ trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung khu vực bỏ phiếu (Điều 13 của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân).
 
Bởi nếu giữ nguyên theo quy định cũ (tức là khu vực bỏ phiếu có từ 300 đến 2.000 cử tri) thì một số đơn vị vũ trang có số cử tri ít hơn 300 người thì sẽ không thành lập được khu vực bỏ phiếu riêng. Do đó, các cử tri này không tham gia bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã được và ảnh hưởng tới quyền bầu cử của họ.  
 
2. Về các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
 
So với luật hiện hành, các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có bổ sung thêm một tổ chức nữa là Hội đồng bầu cử ở Trung ương, sửa đổi về chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Tổ bầu cử; sửa đổi về tên gọi đối với Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, xã (Điều 15 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân).
 
Hội đồng bầu cử ở Trung ương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung đối với cả bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Quy định như vậy nhằm bảo đảm sự chỉ đạo chung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Điều 15a đã quy định thời hạn thành lập, thành viên, số lượng Hội đồng bầu cử thực hiện theo quy định tại khoản 1, Điều 14 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội; về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì thực hiện theo Điểm 2, Điều 15a Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
 
Do đây là cuộc bầu cử chung, nếu theo quy định của từng luật thì phải thành lập nhiều tổ chức ở từng cấp sẽ gây khó khăn cho chính quyền cơ sở trong công tác bố trí nhân sự. Vì vậy, để có tính khả thi, bảo đảm thuận lợi, tiết kiệm nên Luật sửa đổi, bổ sung quy định theo hướng kết hợp. Theo đó, Hội đồng bầu cử cấp tỉnh sẽ hợp nhất với Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội thành Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thực hiện chung nhiệm vụ, quyền hạn của bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
 
Mặt khác, để tránh sự nhầm lẫn và đơn giản hóa việc sửa Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã được đổi tên tương ứng thành Ủy ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, Ủy ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã và được gọi chung là Ủy ban bầu cử. Như vậy, khi triển khai công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp sắp tới sẽ có 3 ban: Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện và Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở các đơn vị bầu cử.  
 
3. Về thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban bầu cử
 
Luật sửa đổi, bổ sung quy định việc thành lập Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được dẫn chiếu theo khoản 1, Điều 15 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội. Việc thành lập Ủy ban bầu cử cấp huyện, cấp xã thì áp dụng theo khoản 2, Điều 16 của Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
 
Thời hạn thành lập các ban bầu cử được nới rộng hơn 05 ngày (trước đây là 90 ngày) nhằm để đảm bảo thời gian cần thiết cho việc kiện toàn bộ máy.
 
Riêng về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban bầu cử được sửa đổi, bổ sung thêm một số nội dung và đã được quy định cụ thể tại Điểm 3, Điều 16.
 
4. Về thời hạn thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ bầu cử
 
Điều 18 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định Tổ bầu cử ở mỗi khu vực bỏ phiếu thực hiện công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và bầu cử đại biểu Quốc hội.
 
Việc thành lập Tổ bầu cử thực hiện theo quy định tại Điều 17 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội. Thời hạn thành lập Tổ bầu cử chậm nhất là 35 ngày trước ngày bầu cử (tăng thêm 5 ngày).
 
Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ bầu cử cơ bản được giữ nguyên, nhưng có sửa đổi, bổ sung về:
 
- Trách nhiệm gửi biên bản và phiếu bầu của Tổ bầu cử cho các cơ quan hữu quan nhằm bảo đảm tính khả thi trong tổ chức thực hiện. Bởi vì, theo quy định của luật hiện hành, Tổ bầu cử phải gửi biên bản kiểm phiếu, phiếu bầu và các tài liệu khác về bầu cử tới Ban bầu cử, Ủy ban nhân dân và Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn - trong đó phiếu bầu chỉ có duy nhất một bản. Vì vậy, Tổ bầu cử không biết phải chuyển cho cơ quan nào. Luật sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể, chặt chẽ đơn vị tiếp nhận phiếu bầu và biên bản kết quả kiếm phiếu là Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
 
- Nhiệm vụ báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của các tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên; đảm nhận nhiệm vụ tổ chức thực hiện việc bầu cử lại, bầu cử thêm trong cuộc bầu cử chung để thống nhất với quy định về Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội.
 
5. Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử
 
Điều 22 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định:
 
- Hội đồng bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sau khi Ủy ban bầu cử đã trình biên bản tổng kết cuộc bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử tại kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khóa mới.
 
- Ủy ban bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sau khi Ủy ban bầu cử đã trình biên bản tổng kết cuộc bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử tại kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá mới.
 
- Ban bầu cử, Tổ bầu cử hết nhiệm vụ đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân sau khi Ủy ban bầu cử kết thúc việc tổng kết công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.”
 
Song trên thực tế, Ủy ban bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ban bầu cử, Tổ bầu cử đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vẫn phải tiếp tục hoạt động khi Ủy ban bầu cử đã trình biên bản tổng kết bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử tại kỳ họp thứ nhất Hội đồng nhân dân khóa mới để thực hiện một số công việc về quyết toán kinh phí, giải quyết các vướng mắc phát sinh về kinh phí bầu cử…Vì vậy, thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử kể trên phải là sau khi Hội đồng bầu cử tiến hành tổng kết công tác bầu cử trong cả nước.
 
6. Về tổ chức phụ trách bầu cử xác nhận việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân
 
Vì bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tổ chức cùng một ngày nên Luật sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể trách nhiệm của Tổ bầu cử phải đóng dấu “đã bỏ phiếu” vào thẻ cử tri để làm căn cứ xác định cử tri đã bầu hay chưa (Điều 51 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân).
 
7. Về trường hợp hoãn bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định
 
Điều 54 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cũng đã xác định rõ vai trò của Tổ bầu cử trong việc báo cáo các tổ chức phụ trách bầu cử cấp trên về trường hợp đặc biệt cần hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định. Tuy nhiên, Luật này lại không xác định cụ thể tổ chức phụ trách bầu cử nào có thẩm quyền xem xét, quyết định việc hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định gây khó khăn, lúng túng trong thực hiện. Do đó, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định thống nhất lại nội dung này theo hướng xác định rõ trách nhiệm của Hội đồng bầu cử trong việc xem xét, quyết định hoãn hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định. Điều này cũng hợp lý vì Hội đồng bầu cử Trung ương có thực hiện nhiệm vụ đối với cả bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
 
Tóm lại, những nội dung đã được trình bày ở lên là những vấn đề cơ bản, ngoài ra Luật sửa đổi bổ sung lần này cũng đã thống nhất về mặt kỹ thuật, tên gọi của các tổ chức phụ trách bầu cử nhằm bảo đảm sự phù hợp, tiện lợi trong công tác chỉ đạo thực hiện./.
 
Hà Xuân Nguyên(Tổng hợp)