Cách đây 67 năm, khi viết bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (1789) những giá trị bền vững, toàn nhân loại, đó là: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người trích dẫn tư tưởng bất hủ đó vào Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam và lấy làm nền tảng pháp lý để đi tới khẳng định các quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc, đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Sở dĩ từ quyền con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh suy rộng ra quyền dân tộc bởi vì giữa những quyền này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong Tuyên ngôn Độc lập, bằng những lập luận đanh thép, Người vạch trần tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, thái độ hèn hạ của chúng bán nước ta cho phát xít Nhật. Đó là bằng chứng hùng hồn chứng minh trước thế giới rằng thực dân Pháp đã vi phạm trắng trợn quyền con người của nhân dân Việt Nam, lột trần bản chất xâm lược của chúng là trái hẳn với mỹ từ “Tự do, bình đẳng, bác ái” hay “Khai hóa văn minh” mà chúng lợi dụng để cướp nước ta. Hành vi chà đạp quyền con người ở Việt Nam của thực dân Pháp cũng chứng minh một điều: Một dân tộc mà chưa giành được độc lập thì mọi con người trong cộng đồng dân tộc đó không thể có hạnh phúc, tự do. Vì vậy, nhân dân Việt Nam đứng lên giành độc lập là một lẽ phải; chỉ có giành được độc lập dân tộc mới có điều kiện để thực hiện quyền con người.
Tuy nhiên, giành được quyền độc lập dân tộc mới chỉ là điều kiện cần. Cái đích cuối cùng là thực hiện các quyền con người cơ bản cho nhân dân Việt Nam đó là ấm no, tự do, hạnh phúc. Chỉ khi nào đông đảo nhân dân được hưởng tự do, ấm no, hạnh phúc thì độc lập dân tộc mới thực sự có ý nghĩa. Vấn đề này liên quan đến việc lựa chọn chế độ chính trị nào để bảo đảm thực hiện được cái đích ấy. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định dứt khoát: “... nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên Nước Việt Nam Dân chủ, Cộng hòa”; “Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên Nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ và lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”. Việc thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là sự thể hiện cụ thể, sinh động đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà dân tộc Việt Nam đã lựa chọn. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa quyền con người và quyền dân tộc. Người nhấn mạnh rất nhiều lần đến “tự do” và “độc lập”- hai từ thiêng liêng đó thể hiện nội dung cốt lõi nhất của quyền con người và quyền dân tộc mà nhân dân ta phải trải bao hy sinh xương máu mới giành được. Cuối bản Tuyên ngôn Độc lập, Người khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam đã có tiếng vang rất lớn trên thế giới. Nó đóng góp cho nền tảng pháp lý nhân loại một giá trị to lớn-khẳng định quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc. Cùng với Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam là những áng văn bất hủ khẳng định quyền con người, quyền dân tộc. Với bản Tuyên ngôn Độc lập, dân tộc ta có vinh dự lớn là dân tộc thuộc địa đầu tiên sau khi giành được độc lập đã có Tuyên ngôn khẳng định quyền độc lập, quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm của dân tộc mình. Với bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã có đóng góp quan trọng vào nền pháp lý của thế giới bằng việc kết hợp chặt chẽ quyền dân tộc thiêng liêng với các quyền cơ bản của con người. Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập đã được thế giới ghi nhận và thể hiện trong Hiến chương Liên hợp quốc, trong các bản tuyên ngôn, các công ước quốc tế: Mỗi con người, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính... đều có các quyền cơ bản mà nếu thiếu chúng thì con người không còn là con người theo đúng nghĩa của nó, đó là quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc... Mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết, tự do lựa chọn thể chế chính trị của mình, tự do theo đuổi con đường phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa, tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên và của cải vì lợi ích của mình, miễn là không phương hại đến các nghĩa vụ hợp tác quốc tế mà mình cam kết. Những điều đó đã trở thành những nguyên tắc ứng xử, những chuẩn mực pháp lý quốc tế; trở thành tài sản tinh thần quý báu, giá trị chung mà nhân loại đã phải đổ biết bao xương máu từ đời này qua đời khác mới đấu tranh giành được.
Tuyên ngôn Độc lập không chỉ dừng lại ở lời nói mà đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam từng bước biến thành hiện thực. Cả cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì không mệt mỏi đưa đất nước ta đi trên con đường độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân, con đường hòa nhập vào nền văn minh chung của nhân loại, ở đó quyền con người, quyền dân tộc, dân chủ là những giá trị căn bản, mang tính toàn cầu. Người chỉ có một ham muốn tột bậc là đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Ngày nay, bối cảnh quốc tế và trong nước đã có những thay đổi, nhưng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập vẫn là kim chỉ nam cho chúng ta phấn đấu, là vũ khí sắc bén để Đảng ta, nhân dân ta đấu tranh chống âm mưu, hoạt động "Diễn biến hòa bình", chống chính sách cường quyền, áp đặt của các thế lực thù địch và bọn phản động để bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng Nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Mạnh Hồng